• Ingen resultater fundet

Các thông điệp và khuyến nghị chính

5. Nguồn điện

5.3 Các thông điệp và khuyến nghị chính

Ngành điện sẽ thúc đẩy quá trình chuyển đổi xanh của toàn bộ hệ thống năng lượng với sản lượng điện cao hơn gấp đôi so với kịch bản BSL

Vì NLTT đã và sẽ sớm trở thành nguồn năng lượng tối ưu nhất về chi phí và do chi phí của NLTT đang giảm dần theo thời gian nên mức độ điện khí hóa cao là lộ trình hiệu quả nhất về chi phí để tiến tới mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050.

Do đó sản lượng điện dự kiến sẽ tăng gấp đôi vào năm 2030 so với năm 2020 và tăng lên hơn 8 lần so với sản lượng hàng năm hiện tại vào năm 2050, cao hơn gấp đôi so với sản lượng trong kịch bản BSL. Lượng điện tăng

Nguồn điện

| 65 thêm này sẽ được sử dụng để điện khí hóa và khử cacbon cho các khu vực còn lại của hệ thống năng lượng. Đặc biệt lĩnh vực giao thông vận tải và lĩnh vực công nghiệp có tiềm năng điện khí hóa rất lớn.

Theo phân tích hiện tại, kịch bản tối ưu hóa chi phí trong đó Việt Nam đạt mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050 sẽ bao gồm 38 GW tổng công suất điện mặt trời và 21 GW điện gió vào năm 2030. Năm 2050, công suất điện mặt trời đạt khoảng 950 GW.

Ngay cả trong kịch bản không có các mục tiêu về khí hậu (kịch bản BSL), công suất đặt điện mặt trời tối thiểu là 22 GW vào năm 2030 là tối ưu về chi phí. Do đó, các chính sách mới để khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực điện mặt trời cần được thực hiện càng sớm càng tốt để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng không vào năm 2050.

Điện gió trên bờ và điện mặt trời trang trại đã hoặc sẽ là những nguồn điện rẻ nhất, nhưng điện mặt trời trang trại phụ thuộc nhiều vào quỹ đất sẵn có. Diện tích cần thiết cho 840 GW điện mặt trời trang trại là 3,3% tổng diện tích của Việt Nam với công nghệ hiện tại, tuy nhiên sự phát triển công nghệ theo hướng hiệu quả cao hơn có thể làm giảm nhu cầu về diện tích đất. Nếu chỉ có một nửa diện tích đất dành cho điện mặt trời, 420 GW điện mặt trời có thể được thay thế bằng 77 GW điện gió trên bờ, 56 GW điện gió ngoài khơi và 35 GW điện hạt nhân với chi phí tăng thêm là 27 tỷ USD/năm vào năm 2050, tương đương 13% tổng chi phí của hệ thống điện.

Không quy hoạch các nhà máy nhiệt điện than mới và cải tạo các nhà máy hiện có để trở nên linh hoạt hơn và tăng cường khả năng tích hợp NLTT

Việt Nam có khoảng 24 GW các nhà máy nhiệt điện than đang hoạt động tại thời điểm hiện tại, khoảng 6 GW nữa đang được xây dựng hoặc dự kiến sẽ được xây dựng vào năm 2030 và hơn 7 GW điện than đã được ký hợp đồng nhưng do khó khăn về tài chính, nên lượng công suất này không được coi là đã cam kết trong báo cáo này.

Không cần có thêm nhà máy nhiệt điện than mới nào cho đến năm 2030. Ngoài ra, không nên xây dựng thêm nhà máy nhiệt điện than mới nào sau năm 2030 để duy trì lộ trình hướng tới mức phát thải ròng bằng không vào năm 2050. Cuối cùng, nên loại bỏ dần các nhà máy nhiệt điện than hiện tại trước khi kết thúc vòng đời kỹ thuật và các nhà máy này nên chuyển từ vai trò chạy nền sang vận hành với công suất giảm dần hướng tới năm 2050.

Để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội đồng thời vẫn hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng không, cần hạn chế mở rộng các nhà máy điện khí và LNG

Hiện nay có khoảng 7 GW các nhà máy nhiệt điện khí nội đang vận hành trong khi chưa có nhà máy LNG nào đi vào hoạt động. Đến năm 2030 sẽ có thêm 3 GW các nhà máy nhiệt điện khí nội và 15 GW LNG mới dự kiến sẽ được xây dựng.

Từ năm 2035 đến năm 2050, sẽ có thêm 3 GW các nhà máy nhiệt điện khí nội và 20-45 GW các nhà máy LNG mới được xây dựng trong tất cả các kịch bản, trừ kịch bản NZ có tổng công suất đặt của các nhà máy nhiệt điện khí tự nhiên không vượt quá 25 GW đã cam kết và giảm dần đến năm 2050. Do đó, khuyến nghị không nên đầu tư mới các nhà máy nhiệt điện khí nội và giữ số lượng các nhà máy điện LNG mới ở mức tối thiểu. Tuy nhiên điện khí vẫn là công nghệ được lựa chọn cho mục đích dự phòng/phủ đỉnh do mức phát thải CO2 thấp và có ưu điểm về khả năng vận hành linh hoạt.

Quá trình chuyển đổi xanh của hệ thống điện sẽ cần rất nhiều vốn với mức đầu tư hàng năm có thể lên đến 167 tỷ USD vào năm 2050 trong kịch bản NZ, tương đương với 11% GDP dự kiến năm 2050 và gấp 5 - 6 lần kịch bản BSL ở năm này

Chi phí hệ thống điện sẽ chuyển dịch theo hướng giảm chi phí nhiên liệu và tăng chi phí đầu tư xây dựng cơ bản.

Trong kịch bản NZ vào năm 2050, tổng chi phí đầu tư vào hệ thống điện dự kiến là 167 tỷ USD, trong đó chi phí đầu tư nguồn điện NLTT là 106 tỷ USD, hệ thống lưu trữ điện năng là 54 tỷ USD, và hệ thống truyền tải liên vùng là 7 tỷ USD. Chi phí này tương đương 11% GDP của năm 2050. Chi phí đầu tư xây dựng cơ bản chiếm khoảng 50%

tổng chi phí hệ thống điện vào năm 2030 trong tất cả các kịch bản và sẽ tăng lên đến 90% tổng chi phí hệ thống điện trong kịch bản NZ vào năm 2050.

Với yêu cầu vốn đầu tư cao của lĩnh vực NLTT, Việt Nam cần có các biện pháp giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư, từ đó giúp giảm giá điện cho người dùng cuối.

Cần củng cố khung pháp lý để hỗ trợ triển khai các nhà máy điện gió ngoài khơi

Việt Nam có tiềm năng điện gió ngoài khơi khá phong phú, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có nhà máy điện gió ngoài khơi nào được xây dựng và vận hành, nguyên do một phần liên quan đến các vướng mắc trong quá trình đề xuất dự án như: (i) thủ tục cấp phép tương đối phức tạp và liên quan đến nhiều cơ quan chức năng khác nhau;

(ii) các chính sách và hướng dẫn cụ thể liên quan đến tài chính và các cơ chế hỗ trợ đầu tư chưa được ban hành;

(iii) chưa có chính sách ổn định và cơ chế giá cụ thể cho loại hình điện gió ngoài khơi; (iv) chưa có hướng dẫn về các dự án phát triển điện gió ngoài khơi kết hợp với sản xuất nhiên liệu điện phân (như hydro, amoniac...).

Trên đây là một số rào cản mà Việt Nam cần sớm tìm giải pháp tháo gỡ để mang lại niềm tin cho các nhà đầu tư, thúc đẩy mạnh đầu tư phát triển các dự án điện gió ngoài khơi nhằm đảm bảo an ninh năng lượng, mang lại hiệu quả kinh tế- xã hội cũng như hiện thực hóa các cam kết của Việt Nam với quốc tế về biến đổi khí hậu.

Nguồn điện

| 67